Một số khách hàng khi sử dụng a xít chì thường đặt một số câu hỏi liên quan đến an toàn, cháy nổ, loại ắc quy sử dụng (lưu trữ, khởi động), dung lượng…. Bài viết này sẽ giải đáp các vấn đề trên.
1. Dùng ắc quy liệu có nguy hiểm gì hay không? Ắc quy có thể bị nổ trong những trường hợp nào?
Khi dùng ắc quy trong kích điện hoặc ta dùng ắc quy cho các mục đích khác cũng có mối nguy hiểm của nó như cảnh báo thường ghi trên nhãn ắc quy, đó là: Có thể bị nổ, có thể gây ra ảnh hưởng bởi nước axít bắn ra.
Ắc quy có thể bị nổ (và kéo theo sẽ là làm bắn axít ra) đối với các trường hợp sau đây:
– Vô ý làm chập điện ắc quy: Thường là dây âm chạm vào dây dương hay dây dương chạm vào dây âm. Lúc đó, ắc quy sẽ phóng một dòng cực kỳ lớn, gây ra phát tia lửa điện, làm nóng bình ắc quy một cách nhanh chóng và có thể phát nổ.
– Gây phát ra tia lửa khi đang nạp ắc quy: Khi nạp ắc quy mà đặc biệt là nạp với một dòng điện lớn thì ắc quy sẽ sinh ra hai loại khí dễ cháy nổ là H2 và O2. Thông thường đối với các ắc quy kín khí thì hai loại khí này sẽ kết hợp lại với nhau và tạo thành nước mà ít khi thoát ra bên ngoài, tuy nhiên trong các ắc quy kiểu hở thì hai khí này sẽ bay vào không khí tại vị trí đặt bình ắc quy. Cùng với một lưu lượng lớn hỗn hợp gồm hai khí này thì khi có tác nhân là các tia lửa (nguyên nhân là hút thuốc , bởi vì đóng cắt các công tắc điện, hay cắm dây và rút dây điện tại phích gần ngay đó, do cặp hoặc ngắt cặp các mỏ kẹp cá sấu cho sạc,….) nên dễ có khả năng dẫn đến cháy nổ.
– Do quá nạp trong thời gian dài: Trong mọi chế độ nạp (giám sát bằng thiết bị nạp tự động hoặc chế độ nạp thủ công) thì cần phải giữ cho nhiệt độ bình ắc quy dưới mức hiển thị ở 50 độ C. Khi mà nạp quá dòng điện cho phép, quá mức điện áp sẽ dễ dẫn đến bình ắc quy bị nóng quá nhiệt độ này dẫn đến tuổi thọ ắc quy giảm nhanh và đặc biệt ắc quy có thể phát nổ nếu nhiệt độ bình quá cao.
2. Hiện tượng quá nạp xảy ra trong trường hợp nào?
Mọi hành động nạp điện vượt qua thông số cho phép với bình ắc quy đều có thể được coi là: quá nạp, vì thế hiện tượng quá nạp có thể xảy ra ngay khi ắc quy chưa được nạp đầy điện.
Sau đây là một vài nguyên nhân dẫn đến hiện tượng quá nạp:
– Quá nạp do không kiểm soát được hoặc không biết kiểm soát quá trình nạp – đây là lý do diễn ra nhiều nhất bởi đa phần người sử dụng ắc quy là những người bình thường, do vậy họ sẽ giao phó toàn bộ việc lắp đặt hệ thống kích điện cho nhân viên bán hàng (hoặc người quen có hiểu biết) sau đó chỉ việc thực hiện theo chỉ dẫn. Các bộ kích điện có chế độ nạp điện tự động và thực hiện tốt thì thường sẽ không có sự cố gì có thể xảy ra, nhưng với các bộ kích điện có chế độ nạp thủ công thì việc thực hiện sai chỉ dẫn (hoặc tính toán sai thời gian nạp do quá trình tiêu thụ điện ắc quy trước đó không hết hoàn toàn) thì rất dễ gây ra quá nạp.
– Sử dụng ắc quy dung lượng quá nhỏ nên không phù hợp với khả năng nạp của bộ kích điện: Mỗi kích điện có khả năng xuất một dòng nạp nào đó (VD: 5A, 10A, 15A,…) khi ở trạng thái ắc quy bị cạn kiện, đa số sử dụng các dòng nạp này đối với các ắc quy (hoặc hệ thống song song nhiều ắc quy) có dung lượng tổng lớn hơn 200Ah thì đều được, nhưng đối với các bình ắc quy có mức dung lượng quá bé thì cũng gây ra quá nạp. VD: một bộ kích điện có dòng nạp max là 12A, khi sử dụng ắc quy axit kiểu hở có dung lượng 50Ah đến 75Ah thì sẽ gây ra hiện tượng quá nạp. Như vậy, đối với việc sử dụng các ắc quy dung lượng lớn hoặc đấu song song nhiều ắc quy sẽ hạn chế được phần nào hiện tượng này.
– Rủi ro do chất lượng của kích điện hoặc các yếu tố khách quan: Các bộ kích điện hiện nay thường được quảng cáo rằng có chế độ nạp 3 giai đoạn – kéo dài tuổi thọ ắc quy – tuy vậy thì chế độ nạp này vẫn ẩn chứa những rủi ro nhất. Bởi một lý do nào đó (như nhận biết sai mức điện áp ắc quy, hay mạch điện bị hư hỏng dẫn đến làm việc sai, hoặc chất lượng linh kiện xuống cấp quá mức, có bụi và độ ẩm làm dẫn tắt trên mạch in, rơi nước vào máy, hoặc có hiện tượng côn trùng thâm nhập…có nhiều nguyên nhân khác nhau) mà do sự điều khiển không đúng dẫn đến quá trình nạp diễn ra sai, nạp quá áp, nạp đầy không ngắt mà vẫn tiếp tục nạp, nạp đầy mà vẫn đặt điện áp ở mức 15V….đây là các lý do dẫn đến hiện tượng bình ắc quy bị nóng và bốc mùi khi nạp điện. Do vậy, cũng không nên tin tưởng hoàn toàn vào chế độ nạp của các hệ thống kích điện để giao phó hoàn toàn cho nó mà không chú ý kiểm tra đến chúng – bởi ngoài lý do lỗi sản phẩm thì còn nhiều lý do khách quan khác nữa để dẫn đến cháy nổ ắc quy. Nêu ra những rủi ro do kích điện hay các lý do khách quan không phải là việc phóng đại quá mức tránh các nguy cơ xảy ra rủi ro, mà chủ yếu nhằm giúp cho người dùng lường hết các khả năng có thể xảy ra nhắm đề phòng hoặc hạn chế thấp nhất những sự việc không mong muốn.
3. Cách phân biệt ắc quy khô? Ắc quy hư hỏng?
Như trong bài ắc quy đã nói: Nhiều người hiểu nhầm về bình ắc quy khô. Để hiểu về ắc quy khô một cách thực sự thì chúng không dùng điện môi H2SO4 bằng dung dịch nước – mà dùng dạng là keo sệt. Loại bình ắc quy này có thể đặt nghiêng một góc quá 45 độ vẫn có thể hoạt động tốt và không thấy có dung dịch trào ra ngoài (trái với ắc quy thông thường và ắc quy kín khí – chỉ cần nghiêng quá 45 độ về các phía thì thấy chắc chắn trào dung dịch axít bên ra). Người mua hàng có thể đề nghị cách thử này với nhân viên bán nếu họ cam đoan rằng đây chắc chắn là ắc quy khô một cách thực sự.
Đối với các bình ắc quy kín khí thì một cách phân biệt đơn giản nhất là chúng thường sẽ có một cảm biến (có người còn gọi là mắt thần) màu xanh hay là nền xanh nhân đỏ và có phần hướng dẫn xem trạng thái bình ắc quy thông qua các cảm biến đó được in trên nhãn mác của ắc quy. Bình ắc quy kín khí còn một đặc điểm cơ bản nữa là chúng sẽ không có các nút, hay các núm để thoát khí của các ngăn trong bình ắc quy.
Cách thử nghiệm bình ắc quy xem có thể bị hư hỏng hay không sao là quan sát bằng chính mắt và có sử dụng dụng cụ kiểm tra bình ắc quy chuyên dùng (thường sẽ có tại các cửa hàng bán ắc quy).
+ Khi ta quan sát bằng mắt: Xem trên tem, nhãn mác (có sắc nét hay không, có phát hiện dấu hiệu mới bị dán lại hay không), xem thử các vết xước trên các cọc điện cực (nếu thấy ắc quy mới thì sẽ có phần nhựa chụp bảo vệ, và chắc chắn còn dính liền với bình ắc quy, nếu không có thì xem phần cọc điện cực có xuất hiện nhiều dấu vết xước, có vết cặp bằng kẹp răng cá sấu,…). Quan sát bình ắc quy có kích thường đồng đều và đảm bảo không bị phồng tại bất kỳ vị trí nào cả,….
+ Sử dụng các dụng cụ chuyên dùng: Tại các cửa hàng ắc quy thông thường có một thiết bị kiểm tra bình ắc quy theo một cách đơn giản, thiết bị kiểm tra có dạng một tay cầm đồng hồ gần giống như hình khẩu súng cùng với một dây dẫn được nối với đầu nhọn để có thể áp vào các cọc điện của bình. Khi ta ấn hai đầu thiết bị này với bình ắc quy thì tuỳ theo mức mà điện áp hiển thị trên mặt đồng hồ mà người ta có thể xác định được ắc quy còn tốt hoặc đã hỏng. Nguyên lý làm việc của thiết bị này là cho một dòng điện có cường độ cỡ vài chục Ampe đi qua và tiến hành đo sự sụt giảm điện áp của bình ắc quy, nếu như điện áp hiển thị trên đồng hồ ở vào mức > 10V thì ắc quy chưa bị hỏng (các tham số về cường độ dòng điện và mức điện áp cụ thể còn tuỳ thuộc vào dung lượng của bình ắc quy).
+ Sử dụng một cách đơn giản hơn: khi sử dụng tại nhà – chỉ để kiểm tra sự giảm dung lượng của bình ắc quy sau một thời gian hoạt động: Sau khi ta nạp đầy, phóng điện bằng một bóng đèn sợi đốt (12V) công suất (P) xấp xỉ vài chục W rồi ta căn cứ vào dòng điện tiêu thụ (lấy P chia cho điện áp) và khoảng thời gian phóng điện mà xác định được dung lượng còn lại của bình ắc quy.
4. Ắc quy khô hay ắc quy nước bền hơn?
Đối với các loại bình ắc quy sử dụng axit (H2SO4) thì có thứ tự độ bền một cách tương đối của các ắc quy như sau:
Bình ắc quy khô sử dụng GEL > bền hơn > Bình ắc quy kín khí > bền hơn > Bình ắc quy hở thông thường.
Với phép so sánh như trên thì chỉ phù hợp khi mà tất cả các loại bình ắc quy này được nạp và được sử dụng đúng cách.
Tuy nhiên, theo tôi thì tránh dùng các loại ắc quy hở thông thường cho việc kích điện bởi các lý do dưới đây:
– Sau một chu kỳ dùng để phát điện, mức điện áp của ắc quy tụt xuống mức thấp và khi tiến hành nạp điện trở lại thì thường cường độ dòng nạp này sẽ lớn (thông thường các thiết bị kích điện được tích hợp bộ nạp có thể nạp với dòng 10A – 20A), khi ta nạp với dòng điện này với các bình ắc quy cỡ tầm 100Ah trở xuống thì có thể dẫn đến cháy nổ – đặc biệt nếu ta quên mở các nắp của các ngăn bình ắc quy (mà việc mở nắp dễ bị quên hay không được biết đến với người sử dụng).
– Bình ắc quy axít kiểu hở khi nạp điện dễ phát sinh ra khí dễ cháy và một số loại khí có chứa lưu huỳnh (S) – gây ra việc khó chịu và gây độc hại đối với người sử dụng.
5. Khi dùng kích điện: Bình ắc quy viễn thông tốt hơn bình ắc quy khởi động?
Đây là một câu hỏi được mọi người khá quan tâm và đã được nhiều người khuyên rằng bình ắc quy viễn thông sẽ tốt hơn so với bình ắc quy khởi động hoặc là tránh dùng ắc quy khởi động cho việc kích điện…Lời khuyên này tuy không sai nhưng có phần chưa cụ thể để có thể hướng người mua đến loại hàng hoá có lãi cao hơn hay cùng được đẩy giá lên cao so với việc dùng một loại ắc quy khác gần tương đương.
Để hiểu cụ thể hơn về vấn đề bình ắc quy viễn thông và bình ắc quy khởi động thì tôi có vài ý kiến dưới đây:
– Đặt ra câu hỏi: Ắc quy viễn thông là gì? Loại ắc quy đó có gì khác biệt so với loại thông thường? Tôi có xem ảnh của các ắc quy được cho là “bình ắc quy viễn thông” thì không thấy ghi trên nhãn là ” viễn thông “, hay là ” dành cho viễn thông ” hay một cái gì đó tương đương. Do đó, ắc quy viễn thông không phải là loại ắc quy khác biệt để có thể phân chúng khác với ắc quy kín khí, hay ắc quy kiềm, hay ắc quy khô…
Cho nên không có “ắc quy viễn thông” như cách nói chưa cụ thể, nhưng lại có một số loại ắc quy hay dùng trong viễn thông và ắc quy hay dùng cho việc khởi động động cơ. Yêu cầu của hai loại bình ắc quy này do chế độ làm việc của chúng nên có sự khác nhau:
Bình ắc quy dùng cho việc khởi động thì tiêu chuẩn yêu cầu cần phải có khả năng phát ra một dòng khởi động lớn (xấp xỉ vài trăm Ampe) trong một thời gian ngắn (khoảng vài giây) rồi sau đó lại có thể lặp lại được việc phóng dòng lớn sau vài giây nghỉ, bình ắc quy làm việc với nhiệt độ ngoài trời (hay lớn hơn), ắc quy phải chịu được các xung động nhất định,…Ắc quy dùng với mục đích khởi động nên là loại ắc quy axit kiểu hở (có thể ta bổ sung được nước cất, phần lớn các hãng sản xuất xe hơi thường dùng các loại ắc quy này với mục đích khởi động), trong một số trường hợp người ta còn dùng bình ắc quy kín khí.
Bình ắc quy dùng cho viễn thông thì không nhất thiết cần phải có yêu cầu như trên, yêu cầu cần cho chúng là có khả năng phát ra dòng điện (khoảng vài chục Ampe) trong một khoảng thời gian dài, dòng điện tự phóng nhỏ, không cần thiết bảo dưỡng, không gây phát sinh các loại khí ăn mòn hay dung dịch ra môi trường xung quanh….Điều kiện làm việc của bình ắc quy dùng trong viễn thông không cao như loại ắc quy khởi động nêu trên vì chúng thường đặt trong nhà (có lúc trong phòng điều hoà), thường được đặt cố định tại một vị trí nhất định. Mọi loại ắc quy dùng trong các UPS (các loại P), các thiết bị lưu điện dự phòng khác đều yêu cầu đúng tính chất như trên và chúng thuộc loại bình ắc quy kín khí hoặc ắc quy khô (dùng gel).
Vậy bình ắc quy dùng trong viễn thông thực chất thuộc loại ắc quy gì? Chắc chắn chúng không phải là ắc quy axít kiểu hở bởi không phù hợp với tiêu chí yêu cầu, vậy chúng chỉ có thể thuộc loại bình ắc quy kín khí hoặc bình ắc quy khô (dùng dạng gel thay nước để chứa axít).
Quay lại câu hỏi ban đầu: Khi dùng kích điện thì ắc quy dùng trong viễn thông tốt hơn ắc quy khởi động? Đúng là như vậy, chúng chắc chắn dùng tốt hơn đối với các ắc quy axít kiểu hở – nhưng đối với các ắc quy hiện thường được dùng cho mục đích khởi động nhưng có cấu tạo kiểu kín khí thì điều này chưa chắc chắn bởi ắc quy dùng trong viễn thông phần lớn vẫn là ắc quy kín khí (phần còn lại là ắc quy khô thực sự, nhưng loại này đắt hơn nhiều), một mặt khác thì sử dụng ắc quy kín khí trong cùng điều kiện dòng phóng thấp, trong môi trường làm việc trong nhà thì tuổi thọ của chúng cũng được tăng lên nhiều so với điều kiện làm việc dưới các nắp capô của xe hơi.
Nói chung, tùy vào điều kiện kinh tế cho phép ta nên dùng ắc quy dùng cho viễn thông, nếu muốn tiết kiệm thì có thể dùng các loại ắc quy kín thí thông thường – không nên sử dụng các ắc quy axít kiểu hở cho kích điện bởi chúng tiềm tàng nhiều khả năng gây nguy hiểm.
6. Ắc quy 100Ah phát được công suất bao nhiêu?
Có một vài người thắc mắc câu hỏi trên và với các thông số tương tự vậy (chẳng hạn ắc quy 150Ah phát được công suất (P) là bao nhiêu?…). Để trả lời câu hỏi này thì trước hết phải biết được rằng chiếc ắc quy 100Ah đó (hay 150Ah đó) là đang dùng cho bộ kích điện có công suất là bao nhiêu. Lý do đơn giản là hệ thống kích điện – ắc quy không thể phát được công suất vượt mức giới hạn của nó.
Bây giờ giả sử rằng kích điện có công suất đủ lớn theo yêu cầu (chẳng hạn như là 3000VA và chỉ sử dụng 1 ắc quy 12V thôi) thì với dung lượng 100Ah sẽ phát được công suất (P) là bao nhiêu? Câu trả lời là: Bình ắc quy với dung lượng này nếu được nạp đủ điện và có chất lượng còn tốt thì hoàn toàn có thể phát được công suất bằng công suất của kích điện – có nghĩa là chúng hoàn toàn có thể phát được ra một dòng điện cỡ 250 A để phục vụ cho công suất trên của kích điện (ắc quy kín khí Thunder do GS nhập về hoặc Atlas với dung lượng 100Ah có thể phát dòng điện tức thời lên đến 500A). Tuy nhiên, nếu phát bằng dòng điện có cường độ lớn như vậy thì dung lượng tích điện của ắc quy sẽ giảm đi rất nhiều (thấp hơn nhiều so với con số 100Ah), nó cách khác khi phát một dòng điện lớn trong một khoảng thời gian dài sẽ làm cho nóng bình, dễ gây nổ bình hoặc làm hư hỏng bình ắc quy.
Vậy một ắc quy thì nên phát với dòng điện có cường độ dòng điện bằng bao nhiêu thì hợp lý? Các chuyên gia khuyên rằng chỉ nên phát điện với cường độ bằng dung lượng ắc quy trong thời gian ngắn (phục vụ việc khởi động các động cơ hoặc trong thời điểm quá độ khi bật các thiết bị sử dụng điện); Nên phát với dòng dưới 1/3 dung lượng bình trong thời gian dài hơn (như vậy đối với ắc quy 100Ah thì ta nên phát I < 33A). Riêng tôi cho rằng chỉ nên phát dòng điện với cường độ bằng cường độ dòng điện nạp cho phép – tức là ắc quy kín khí thì phát với dòng bằng 1/4 dung lượng bình (25A cho bình 100Ah) và với ắc quy axít kiểu hở thì phát dòng bằng 1/10 dung lượng bình – tức là 10A cho bình dung tích 100Ah. Tuy chưa thấy các tài liệu nào nói về điều này là phù hợp, nhưng tôi cho rằng từ việc nạp điện với mức dòng này là được phép thì việc phát điện với mức dòng đó (quá trình phát là ngược lại với quá trình nạp) là an toàn là phù hợp.
Như vậy bạn có thể chọn mức công suất phát với dòng bằng 1/3 dung lượng bình (tức công suất 12V x 33A = xấp xỉ 400VA với một bình 100Ah) hoặc tốt hơn là với dòng điện bằng 1/4 hoặc 1/10 dung lượng bình để ắc quy đạt được tuổi thọ max. Trong TH muốn phát các công suất (P) cao hơn mức này thì nên mắc song song với chúng thêm các bình ắc quy nữa cùng dung lượng.